Chùa Phật học Xá Lợi (quận 3)
Chùa Xá Lợi là một danh lam ở thành phố Hồ Chí Minh, có kiến trúc hiện đại mà vẫn mang sắc thái văn hóa dân tộc, đây là một kiến trúc mang nét đặc thù của đất Sài Gòn, và là một điểm thắng tích mang dấu ấn của cuộc đấu tranh lịch sử của Phật giáo đồ chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm kỳ thị và đàn áp tôn giáo. Hơn thế nữa, nơi đây là địa điểm hình thành nên những cột mốc lịch sử của tiến trình thống nhất Phật giáo Việt Nam, từ khi ngôi chùa mới được thành lập cho đến sau ngày Phật giáo được thực sự thống nhất toàn diện.
I. LỊCH SỬ XÂY DỰNG CHÙA XÁ LỢI:
Năm 1952, phái đoàn Phật giáo Tích Lan đi dự phiên họp lần thứ II của Hội Phật giáo thế giới (World Fellowship of Buddhists) tổ chức tại Tokyo – Nhật Bản, có phụng thỉnh theo một viên ngọc xá lợi của đức Phật để tặng Phật giáo Phù Tang. Phái đoàn đáp tàu La marseillaire phải ghé bến Sài Gòn 24 giờ. Tiến sĩ Malalasekeka, chủ tịch hội Phật giáo thế giới đánh điện cho hội Phật học Nam Việt tổ chức cung nghinh xá lợi lên bờ cho công chúng chiêm bái trong khoảng thời gian tàu ghé lại Sài Gòn. Được sự ủy nhiệm của Thượng tọa Tố Liên, đại diện của hội Phật giáo thế giới tại Việt Nam và các tập đoàn trong Tổng hội Phật giáo Việt Nam ủy nhiệm, hội Phật học Nam Việt đứng ra tổ chức một ủy ban liên phái gồm 11 đoàn thể cung nghinh xá lợi, số lượng tham dự lên đến nửa triệu người (phỏng ước của báo chí) làm cho nhà cầm quyền Việt Pháp lúc bấy giờ phải kinh ngạc trước sức mạnh tinh thần của Phật giáo.
Xá lợi được cung nghinh trên một kiệu hoa kết hình bạch tượng, từ bến Nhà Rồng của hãng Messageries Maritimes về “nhà kiếng” (nay là trụ sở Tổng liên đoàn lao động Việt Nam) được trang trí làm nơi thờ tạm để lấy chỗ rộng rãi cho công chúng đến chiêm bái. Từ 11 giờ trưa đến 3 giờ sáng hôm sau, thiện nam tín nữ nối gót nhau đến dâng hương đảnh lễ không lúc nào dứt.Đến 5 giờ sáng, 11 tập đoàn họp trở lại để phụng thỉnh xá lợi xuống tàu đi đến Nhật Bản. Với sự tha thiết của Phật giáo đồ Việt Nam như thế, sang năm sau (1953) đại đức Narada Mahathera, tọa chủ chùa Vajirarama ở Tích Lan sang Việt Nam, phụng thỉnh theo 3 viên Xá lợi và 3 cây Bồ đề con, để dâng cúng cho 3 nơi : Phật giáo Nguyên thủy (chùa Kỳ Viên), Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Cao Miên (theo lời tuyên bố của đại đức lúc đến phi trường Tân Sơn Nhất).
Được ủy nhiệm, đạo hữu Chánh Trí - Mai Thọ Truyền dẫn đầu một phái đoàn hợp cùng phái đoàn cung nghinh do Phật giáo Nguyên thủy tổ chức, lên phi trường Tân Sơn Nhất tiếp đón đại đức và các bảo vật. Về đến chùa Kỳ Viên, đại đức lập lại lời tuyên bố ban đầu và dự định vào sáng hôm sau sẽ trao cho đạo hữu Chánh Trí phần xá lợi và cây bồ đề dành cho Phật giáo Bắc tông.
Nhưng ngay đêm hôm ấy đã xảy ra sự tranh chấp, về việc đoàn thể Phật giáo nào có đủ tư cách đại điện cho Phật giáo Bắc tông Việt Nam được phụng thờ ngọc xá lợi. Đạo hữu Chánh Trí phải giải thích nhiều mới bênh vực được tư thế của Tổng hội Phật giáo Việt Nam, là tập đoàn lớn nhất thời bấy giờ gồm những Tăng già và cư sĩ đại diện 3 miền đất nước.
Do vì chưa nắm rõ tình hình nội bộ Phật giáo Việt Nam và để tránh sự dị nghị, sau khi thảo luận với đạo hữu Chánh Trí, đại đức Narada đã quyết định dâng ngọc xá lợi lên đức Đoan Huy - Hoàng thái hậu (thường gọi là đức Từ Cung, thân mẫu cựu hoàng Bảo Đại - lúc đó đang làm quốc trưởng chính quyền vùng Pháp tái chiếm), để bà Thái hậu tùy ý giao lại cho đoàn thể Phật giáo nào mà bà xét thấy đáng phụng thờ di tích của đức Thế tôn.
Sau cuộc phân chia xá lợi, phần của Phật giáo Bắc tông được hội Phật học cùng các đoàn thể bạn hợp sức cung nghinh ra nhà kiếng cho công chúng chiêm bái 3 ngày 3 đêm, và ngay tại đây, đại đức Narada làm lễ kính trao cho ông Ưng An, khâm sai của Hoàng thái hậu. Ba ngày chiêm bái đã xong, một phái đoàn gồm có đại đức Narada, đại đức Bửu Chơn, ông Ưng An, ông Lê Văn Hoạch - Phó thủ tướng kiêm tổng trưởng thông tin, ông Nguyễn Văn Hiểu - hội trưởng hội Phật giáo Nguyên thủy và đạo hữu Chánh Trí - Mai Thọ Truyền, phụng thỉnh tháp vàng (do gia quyến ông Võ Văn Trọng ở Nam Vang cúng) lên Ban Mê Thuộc. Tại tư dinh, đức Đoan Huy-Hoàng thái hậu khăn áo chỉnh tề trong cảnh trầm hương nghi ngút quỳ tiếp ngọc báu.
Hai năm sau, đức Từ Cung quyết định giao cho Tổng hội Phật giáo Việt Nam trách nhiệm phụng thờ ngọc xá lợi. Tổng hội xét công lao của hội Phật học Nam Việt, đã ủy nhiệm cho hội nhiệm vụ thờ phụng, lúc ấy trụ sở của hội còn đặt tại chùa Phước Hòa ở khu Bàn Cờ, cũ kỹ và chật hẹp.
Đến năm 1955, hội Phật học Nam Việt quyết định xây dựng chùa mới tại một vị trí khác, để có nơi xứng đáng phụng thờ di bảo đức Thế tôn và đủ chỗ cho thiện nam tín nữ đến lễ Phật chiêm bái xá lợi. Hội đã được tòa đại biểu chính phủ tại Việt Nam ký giấy phép cho phép hội mở cuộc lạc quyên với hạn mức số tiền tối đa là 5 triệu đồng để dùng vào việc kiến trúc. Cuộc lạc quyên được bắt đầu từ ngày 14.01.1956 và khóa sổ vào ngày 27.12.1956, kết quả được hơn 3 triệu đồng. Theo họa đồ xây dựng chùa, công trình được dự toán kinh phí khoảng 7 triệu đồng bạc thời bấy giờ.
Chi tiết Tài liệu
(028) 3930 0114 - (028) 6656 1059
(028) 3930 0114